1. Hệ thống dây chằng mũi Ngoài khung xương sụn nêu trên cấu trúc nâng đỡ chóp mũi còn bao gồm: cơ, mô liên kết và các nhóm dây chằng. Có 4 nhóm dây chằng tạo nên cấu trúc nâng đỡ chóp mũi
I. Dây chằng giữa sụn mũi bên và sụn cánh mũi lớn. II. Dây chằng giữa chân bên sụn cánh mũi lớn và sụn cánh mũi nhỏ. III. Dây chằng gian vòm: treo giữa hai phân đoạn vòm sụn cánh mũi lớn. IV. Dây chằng gian trụ: treo giữa 2 trụ trong sụn cánh mũi lớn và các chỗ bám tới đuôi vách ngăn [115].
Hình 1.6. Dây chằng treo nâng đỡ chóp mũi. “Nguồn: Siemionow M.Z (2010),”Plastic and Reconstructive Surgery”, Springer-Verlag London Limited” [115] Ngoài ra theo Han S.K. còn có dây chằng da - sụn nằm dọc theo đường giữa, dính vào phân đoạn vòm của sụn cánh lớn, biến mất dần vào sụn vách ngăn [48]. Những cấu trúc nâng đỡ này thường bị gián đoạn, hoặc phá vỡ khi mổ mở. Do đó cần tái tạo lại những cấu trúc này nhằm bảo đảm tái tạo tháp mũi mới ổn định về cấu trúc cũng như về chức năng [48]. 1.1.4. Da và mô dưới da Theo Han S.K (2006) da tháp mũi ít lông và tương đối dày ở một phần ba trên của mũi. Da trở nên mỏng hơn ở đoạn một phần ba giữa, ở đoạn một phần ba dưới thì dày trở lại và có nhiều tuyến bã. Da người châu Á thường
Dây chằng nhóm I
Dây chằng nhóm III
Dây chằng nhóm II
Dây chằng nhóm IV
10
dầy và săn chắc nên có thể sử dụng chất liệu nhân tạo thuần tuý khi tạo hình nâng mũi [48]. Mô mềm dưới da bao gồm: các cơ, mạch máu, thần kinh, mô mỡ và các mô liên kết khác.
Hình 1.7. Cấu trúc da và mô mềm tháp mũi. “Nguồn: Yong Ju Jang (2014), Koonja Publishing Inc” [119]
2. Các cơ tháp mũi
Có 8 cơ vùng mũi bao gồm: 1. Cơ nâng môi trên; 2. Cơ hạ cánh mũi; 3. Cơ mảnh khảnh (cơ tháp); 4. Cơ hạ lỗ mũi (phần cánh cơ mũi); 5. Cơ nở lỗ mũi sau (phần ngang cơ mũi); 6. Cơ hạ vách mũi; 7. Cơ nở lỗ mũi trước; và 8. Cơ hẹp lỗ mũi bé. Các cơ của mũi theo tên gọi, phục vụ hai chức năng chính là: di chuyển đầu mũi và hỗ trợ dòng không khí qua mũi. Các cơ mũi nằm ở bên trong của hệ thống cân mạc nông vùng mũi (SMAS) và hoạt động như là dây chằng đỡ trong suốt quá trình co kéo cơ [48], [55]. Sự co kéo không hợp lý của cơ hạ vách mũi có thể làm đầu mũi lệch xuống dưới khi cười. Trong liệt thần kinh
Da
Lớp mỡ nông dưới da Cơ mũi và mô liên kết Lớp mỡ sâu
Màng sụn Sụn
mặt, cơ nâng môi trên, cơ hạ cánh mũi bị liệt, không thể giữ van mũi ngoài mở, do đó dẫn tới tắc nghẽn đường mũi bên lệch [48], [115]. Cần chú ý đến các cơ này để bảo tồn chức năng thở và linh động sau khi tạo hình mũi mở.
Hình 1.8. Các cơ tháp mũi. “Nguồn: Yong Ju Jang (2014), Koonja Publishing Inc. [55]
3. Mạch máu Sự cấp máu cho mũi xuất phát từ động mạch cảnh trong và động mạch cảnh ngoài. Sự cấp máu bên ngoài mũi từ hai nguồn bởi động mạch mắt - thuộc nhánh mắt của động mạch cảnh trong và động mạch mặt - một nhánh của động mạch cảnh ngoài. Các nhánh lưng mũi của động mạch mắt cấp máu chủ yếu cho gốc mũi và 2/3 sống mũi trên. Còn các nhánh của động mạch mặt cung cấp máu cho phần đầu và trụ mũi phía dưới [55]. Đây là những nhánh dễ tổn thương khi mổ mũi mở và cắt cánh mũi. Tuy nhiên năm 2012
Cơ mảnh khảnh
Cơ nở lỗ mũi trước Cơ hẹp lỗ mũi trước Cơ hạ vách mũi Cơ h ạ cánh mũi Cơ vòng môi Cơ nâng môi trên Cơ nở lỗ mũi sau
Saban Yves đã chỉ ra rằng khi mổ mũi mở, nếu bóc tách dưới SMAS là an toàn vì mạch máu nuôi chóp mũi có từ nhiều nguồn rất phong phú [112]. Sự cấp máu bên trong và từ trên mũi chủ yếu từ động mạch sàng trước và động mạch sàng sau, cũng là nhánh của động mạch mắt. Bên trong mũi từ phía dưới vách ngăn được cấp máu từ động mạch khẩu cái lớn và các nhánh của động mạch mặt [55]. Các nhánh của hai nguồn máu nuôi này tập trung ở vùng trước hai bên vách ngăn mũi tạo thành điểm mạch (gọi là điểm mạch Kisselbach), nơi thường xảy ra chảy máu mũi tự phát [55].
Hình 1.9. Hệ thống mạch máu mũi ngoài “Nguồn: Frank H. Netter (2012), Atlas giải phẫu người, trang 45” [2]
I. Dây chằng giữa sụn mũi bên và sụn cánh mũi lớn. II. Dây chằng giữa chân bên sụn cánh mũi lớn và sụn cánh mũi nhỏ. III. Dây chằng gian vòm: treo giữa hai phân đoạn vòm sụn cánh mũi lớn. IV. Dây chằng gian trụ: treo giữa 2 trụ trong sụn cánh mũi lớn và các chỗ bám tới đuôi vách ngăn [115].
Hình 1.6. Dây chằng treo nâng đỡ chóp mũi. “Nguồn: Siemionow M.Z (2010),”Plastic and Reconstructive Surgery”, Springer-Verlag London Limited” [115] Ngoài ra theo Han S.K. còn có dây chằng da - sụn nằm dọc theo đường giữa, dính vào phân đoạn vòm của sụn cánh lớn, biến mất dần vào sụn vách ngăn [48]. Những cấu trúc nâng đỡ này thường bị gián đoạn, hoặc phá vỡ khi mổ mở. Do đó cần tái tạo lại những cấu trúc này nhằm bảo đảm tái tạo tháp mũi mới ổn định về cấu trúc cũng như về chức năng [48]. 1.1.4. Da và mô dưới da Theo Han S.K (2006) da tháp mũi ít lông và tương đối dày ở một phần ba trên của mũi. Da trở nên mỏng hơn ở đoạn một phần ba giữa, ở đoạn một phần ba dưới thì dày trở lại và có nhiều tuyến bã. Da người châu Á thường
Dây chằng nhóm I
Dây chằng nhóm III
Dây chằng nhóm II
Dây chằng nhóm IV
10
dầy và săn chắc nên có thể sử dụng chất liệu nhân tạo thuần tuý khi tạo hình nâng mũi [48]. Mô mềm dưới da bao gồm: các cơ, mạch máu, thần kinh, mô mỡ và các mô liên kết khác.
Hình 1.7. Cấu trúc da và mô mềm tháp mũi. “Nguồn: Yong Ju Jang (2014), Koonja Publishing Inc” [119]
2. Các cơ tháp mũi
Có 8 cơ vùng mũi bao gồm: 1. Cơ nâng môi trên; 2. Cơ hạ cánh mũi; 3. Cơ mảnh khảnh (cơ tháp); 4. Cơ hạ lỗ mũi (phần cánh cơ mũi); 5. Cơ nở lỗ mũi sau (phần ngang cơ mũi); 6. Cơ hạ vách mũi; 7. Cơ nở lỗ mũi trước; và 8. Cơ hẹp lỗ mũi bé. Các cơ của mũi theo tên gọi, phục vụ hai chức năng chính là: di chuyển đầu mũi và hỗ trợ dòng không khí qua mũi. Các cơ mũi nằm ở bên trong của hệ thống cân mạc nông vùng mũi (SMAS) và hoạt động như là dây chằng đỡ trong suốt quá trình co kéo cơ [48], [55]. Sự co kéo không hợp lý của cơ hạ vách mũi có thể làm đầu mũi lệch xuống dưới khi cười. Trong liệt thần kinh
Da
Lớp mỡ nông dưới da Cơ mũi và mô liên kết Lớp mỡ sâu
Màng sụn Sụn
mặt, cơ nâng môi trên, cơ hạ cánh mũi bị liệt, không thể giữ van mũi ngoài mở, do đó dẫn tới tắc nghẽn đường mũi bên lệch [48], [115]. Cần chú ý đến các cơ này để bảo tồn chức năng thở và linh động sau khi tạo hình mũi mở.
Hình 1.8. Các cơ tháp mũi. “Nguồn: Yong Ju Jang (2014), Koonja Publishing Inc. [55]
3. Mạch máu Sự cấp máu cho mũi xuất phát từ động mạch cảnh trong và động mạch cảnh ngoài. Sự cấp máu bên ngoài mũi từ hai nguồn bởi động mạch mắt - thuộc nhánh mắt của động mạch cảnh trong và động mạch mặt - một nhánh của động mạch cảnh ngoài. Các nhánh lưng mũi của động mạch mắt cấp máu chủ yếu cho gốc mũi và 2/3 sống mũi trên. Còn các nhánh của động mạch mặt cung cấp máu cho phần đầu và trụ mũi phía dưới [55]. Đây là những nhánh dễ tổn thương khi mổ mũi mở và cắt cánh mũi. Tuy nhiên năm 2012
Cơ mảnh khảnh
Cơ nở lỗ mũi trước Cơ hẹp lỗ mũi trước Cơ hạ vách mũi Cơ h ạ cánh mũi Cơ vòng môi Cơ nâng môi trên Cơ nở lỗ mũi sau
Saban Yves đã chỉ ra rằng khi mổ mũi mở, nếu bóc tách dưới SMAS là an toàn vì mạch máu nuôi chóp mũi có từ nhiều nguồn rất phong phú [112]. Sự cấp máu bên trong và từ trên mũi chủ yếu từ động mạch sàng trước và động mạch sàng sau, cũng là nhánh của động mạch mắt. Bên trong mũi từ phía dưới vách ngăn được cấp máu từ động mạch khẩu cái lớn và các nhánh của động mạch mặt [55]. Các nhánh của hai nguồn máu nuôi này tập trung ở vùng trước hai bên vách ngăn mũi tạo thành điểm mạch (gọi là điểm mạch Kisselbach), nơi thường xảy ra chảy máu mũi tự phát [55].
Hình 1.9. Hệ thống mạch máu mũi ngoài “Nguồn: Frank H. Netter (2012), Atlas giải phẫu người, trang 45” [2]
Nhận xét
Đăng nhận xét